Mỗi năm
cứ mỗi lần tháng Tư đến là người Việt tị nạn cộng sản tưởng nhớ
đến Miền Nam VN, quê hương thân yêu bị cộng sản Bắc Việt thôn
tính bằng vũ lực. Năm nay cũng đă 34 năm qua rồi, tôi ngồi nhớ
lại những kỷ niệm vui buồn trong những ngày di tản đi t́m tự do
và ghi lại như sau:
Hồi
Kư: Những Chuỗi Ngày Trên Đường Đi Tị Nạn CS Năm 1975
Sau
khi cộng sản Bắc Việt dùng vũ lực cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam
vào lúc 9 giờ sáng ngày 30/4/1975, th́ tại Vientiane thiên hạ đổ
xô nhau vượt sông Mékong qua bên kia biên giới Thái Lan tị nạn.
Tại bến tàu Thànalèng, cách thủ đô Vientiane 22 cây số về phía
Nam, hai cái phà chạy qua chạy lại chở xe và người qua phía Bắc
Nongkhai, Thái Lan, rất tự nhiên không hề bị Ại Noọng (CS Pathet
Lào) làm khó dễ. Tôi nao nức muốn đem gia đ́nh đi tị nạn, nhưng
kẹt quá v́ con trai 2 tuổi vừa mới xuất viện hôm 26/4/1975 c̣n
quá yếu, bác sỹ Nhommala Bouasakao, người chữa bệnh cho con tôi
tại bệnh viện Mahosot, dặn phải đem cháu đến văn pḥng riêng của
ổng một tuần hai lần. Tôi hỏi bác sỹ trong trường hợp tôi đem
gia đ́nh đi tị nạn, liệu sức khỏe của con tôi có bị trở ngại ǵ
không. Bác sỹ trả lời là không nên đi đâu hết trong
lúc này. Tôi đành ngậm ngùi ở lại. Trong khi đó, nh́n đầu
tỉnh đến cuối tỉnh hầu như đa số các bạn bè đều đă đi cả rồi…
Một
hôm bác sỹ tâm sự với vợ chồng tôi là phu nhân và 2 đứa con của
ông sẽ hồi hương về Pháp. Ổng muốn bà xă tôi làm vài món ăn Việt
đăi ông bả trước khi 3 mẹ con bả về Pháp. Vợ tôi làm chả gị, ḅ
kho bánh ḿ và một nồi chè đậu xanh đem xuống tư gia của ông bà
gần khu giải trí “555” ở Chinaimô. Trong lúc ăn uống vui vẻ, tôi
liền nói với bả là khi về đến Pháp, xin bà giúp làm giấy tờ bảo
lănh cho gia đ́nh tôi qua Pháp tị nạn với nhá. Không đắn đo suy
nghĩ, bả gật đầu ngay.
Tôi
vẫn đưa con tôi đến văn pḥng riêng của bác sỹ để tái khám như
thường lệ. Hai tuần sau khi vợ con của bác sỹ về Pháp, Bác sỹ
Nhommala cho tôi biết là đă nhận được giấy bảo lănh do ông anh
của phu nhân bác sỹ đứng tên. Tôi mừng quá. Nhưng bác sỹ sợ tôi
bỏ đi tị nạn ngay nên ổng không chịu đưa giấy đó cho tôi.
Vào
đầu tháng Tám, chiều ngày thứ Ba tôi đem con tôi đến văn pḥng
bác sỹ, cô y-tá bảo rằng hôm nay bác sỹ bận mổ bệnh nhân tại
bệnh viện nên không đến văn pḥng được, và hẹn tôi trở lại ngày
hôm sau. Chiều hôm sau tôi lại đem con tôi đến nữa. Lần này cô
y-tá cũng nói với tôi như ngày hôm trước. Chiều thứ Năm tôi lại
đưa con tới văn pḥng thêm lần nữa. Lần này cô y-tá cũng lắc đầu,
nhưng cô lại trao cho tôi một phong thư và bảo là bác sỹ dặn đưa
cho tôi. Tôi nghi là bác sỹ cũng đă chuồn êm rồi!
Về
đến nhà tôi mở phong b́ ra xem th́ thấy có một tờ giấy bảo lănh,
một toa thuốc để tôi mua thuốc cho con tôi dùng trong ṿng vài
tháng và một tờ giấy nhỏ ghi mấy chữ: “Hẹn gặp nhau ở Bangkok.
Kư: Dr. N. Bouasakao”.
Tôi
chuẩn bị chờ ngày ra đi th́ nghe tin ông bà Huỳnh Tấn Tạo và 2
đứa con đi Belgique với thông hành “Người Vô Tổ Quốc” bị chính
quyền Bỉ không cho nhập cảnh và bị trao trả về Vientiane. Ông bà
Huỳnh Tấn Tạo là bố mẹ đỡ đầu Hôn Phối của vợ chồng tôi. Tôi đến
thăm ông bà và nhận thấy ông bà rất sợ, không dám gặp ai. Tôi an
ủi ông bà và tâm sự: “nếu hai bác c̣n muốn có ư định đi tị nạn
nữa th́ đi với cháu v́ gia đ́nh chúng cháu đă sẵn sàng rồi. Chỉ
mất mỗi đầu người 100 đô cho người dẫn đường đưa tới nhà thờ
Fatima ở Bangkok.” Ông bà Tạo tin tưởng tôi và đồng ư đi theo.
Người đưa đường cho chúng tôi điểm hẹn gặp nhau tại nhà chị vợ
tôi ở khu Bản Phải vào ngày Chúa Nhật lúc 8 giờ sáng. Tôi thao
thức và trằn trọc suốt đêm thứ Bảy không tài nào ngủ được v́ lo
lắng sợ sệt không biết trên đường đi có bị trắc trở ǵ không?
Mới 5 giờ sáng đă có người gơ cửa nhà tôi. Tôi lo quá, không
biết chuyện ǵ mà ai đây gơ cửa sớm như vậy? Chắc là bị động
chăng? Mở cửa xem, th́ té ra ông Đương, anh rể cả của tôi, qua
đánh thức tôi dậy và bảo đi biểu t́nh ở Chợ Sáng vào lúc 7 giờ
để đ̣i đất khu Xóm Khouadine. Tôi cho ảnh biết là sau khi đi Lễ
ở nhà thờ xong th́ tôi sẽ ra đó. Anh rể tôi c̣n nhắc tôi thêm
lần nữa là đừng quên ra đó nhá!
Khoảng 7 giờ sáng, chúng tôi ngồi trên chiếc xe taxi đến nhà bà
chị vợ, khi đi ngang qua khu Chợ Sáng, tôi thấy số người đến dự
cuộc biểu t́nh rất đông làm tôi phải cúi đầu xuống để dấu mặt sợ
người ta nh́n thấy. May lúc đó mưa bắt đầu rơi. Đến nhà bà chị
vợ tôi th́ mưa càng lớn hơn.
Đúng 8 giờ sáng người đưa đường đến trong lúc mưa tầm tă với 2
chiếc xe taxi để chở gia đ́nh ông bà Tạo, mẹ vợ, cô em vợ tôi và
gia đ́nh tôi đến 1 địa điểm ở khu That Luang. Sau đó anh tài xế
taxi chở một ḿnh tôi đi trước đến 1 nhà gần khu Chợ Sỉkhay, lúc
đó tôi đang mặc 2 cái quần tây và 2 áo sơ mi. Anh tài xế bào tôi
cởi áo quần ra và cho tôi mặc 1 cái quần đùi và cái áo thun. Y
hỏi tôi có tiền không? Tôi hỏi lại: anh cần bao nhiêu? Y bảo: 1
ngàn kịp. Lúc đó tôi có khoảng 3,000 kip trong túi. Y mua 2 khúc
mía, đưa cho tôi 1 khúc và bảo ăn đi rồi dặn tôi khi xuống dưới
bến đ̣, y sẽ ra phía sau nổ máy, c̣n tôi đi phía trước mở giây
và đẩy chiếc ghe ra khỏi bờ. Tôi làm y chang những ǵ hắn bảo.
Lúc đó cũng vào khoảng 10 giờ sáng, có một anh “ại-noọng” (lính
pathet Lào) đang cầm súng gác ngay đầu cầu bến đ̣ tưởng hai đứa
chúng tôi là hai thằng chở khách qua sông.
Qua
đến đất Thái-Lan hắn đưa tôi đến 1 căn nhà ở phía Nam thành phố
Sixiêngmày đối diện với bờ sông bên kia là Hotel Lane Xang-Vientiane
và giao tôi cho một người đàn bà Thái. Đến 12 giờ trưa rồi mà
c̣n chưa thấy vợ con qua, tôi nóng ḷng sốt ruột đành nói dối bà
người Thái là tôi đói bụng đi kiếm ǵ ăn đây. Tôi liều tản bộ
lên bến đ̣ xem, th́ t́nh cờ ông đưa đường nh́n thấy tôi và kêu
một chiếc xe “xảm lọ” (xích lô đạp 3 bánh) chở tôi về một căn
nhà khác lớn hơn và hắn rầy la tôi: mày đi tị nạn cộng sản mà
không sợ việt gian thân cộng ở Sixiêngmày bắt cóc và làm thịt
mày sao? Quả thật, khi tôi tản bộ đi ngang qua các căn nhà dọc
theo bờ sông, tôi nghe người ta mở đài Hànội oang oang. Hú hồn!
(Trước đây đă có một số người Việt-kiều thân cộng sống bên Thái
đă bị trao trả về Miền Bắc VN. Số c̣n lại bị chính quyền Thái
dồn họ tới miền Đông Bắc Thái sống dọc theo bờ Sông Cửu Long tại
các tỉnh như: Nakhorn Phanom, Mương Càn, Thà Ḅ, Nongkhai,
Sixiêngmày, Sakorn Nakhorn, Udon Thani, … để chính quyền Thái dễ
kiểm soát sinh hoạt của họ).
Ba
giờ chiều th́ vợ con tôi, mẹ vợ, em gái vợ, và 3 mẹ con bà Tạo
cũng qua được. Riêng ông Tạo th́ nghe nói ổng run quá, nên chưa
cho ổng qua được. Hai ngày trôi qua mà ông Tạo vẫn c̣n run rẩy,
cuối cùng họ để ổng ngủ dưới thuyền suốt đêm, sáng hôm sau, đến
giờ mở cửa sông th́ họ chở ông Tạo qua được. Mừng quá là mừng!
Trong thời gian này lại có thêm mấy đứa con gái con ông Hoàng
bán tem qua nữa.
Trong mấy ngày tạm trú tại Sixiêngmày, nh́n qua bên kia Lào,
thấy khách sạn Lane Xang, bên cạnh đó là Banque de l’Indochine,
nơi tôi đă từng làm việc suốt 6 năm trời. Tôi quá lưu luyến và
nhớ đến các anh chị em đồng nghiệp c̣n đang ở lại làm việc nơi
đó.
Mới
từ giă Lào có 5 ngày mà tôi thấy nhớ Vientiane quá chừng. Nhớ
tới mẹ già mà tôi không một lời từ giă trước khi ra đi. Cũng chỉ
v́ sợ bà cụ làm rùm beng lên th́ hỏng cả mọi việc. Đáng lẽ ra 3
gia đ́nh anh chị em chúng tôi bao gồm 19 người cùng đi với nhau
vào ngày 15/6/1975 trong đó có cả mẹ tôi và mẹ vợ anh tôi, nhưng
vào phút chót th́ cả hai bà cụ bỏ ư định, không chịu đi, sống
chết chỉ ở Lào thôi. Sau đó tôi đến xin ông Coudert, phó giám
đốc Banque de l’Indochine để được trở lại làm việc như thường
lệ. Ổng cũng tốt bụng và cho tôi tiếp tục làm việc cho đến khi
nào tôi đi th́ thôi.
Khoảng 7 giờ tối thứ Năm, một chiếc xe chở đầy những cây gỗ đậu
ngay trước căn nhà chúng tôi đang tạm trú, người đưa đường kêu 5
đứa trong số 12 người chúng tôi: hai người em của Cảnh (con ông
Hoàng bán tem), 2 chị em con ông bà Tạo và tôi. Họ dặn: 1 cô lớn
tuổi và 1 em nhỏ tuổi ngồi băng trước, riêng tôi và 2 đứa kia sẽ
chui xuống nằm giữa đống gỗ phía sau. Tôi vừa trèo lên xe th́
nghe ông đưa đường bảo: nhanh lên, cảnh sát biên pḥng đến ḱa,
im lặng và đừng cử động! Tôi nghe giọng nói bằng tiếng Thái:
Người
này là ai?
Vợ tôi.
Ông đưa đường trả lời.
Đứa kia là ai?
Con tôi.
Đem nhau đi đâu?
Đi Krungthêp (Bangkok) chơi
và thăm bà con.
May quá
cảnh sát biên pḥng không trèo lên phía sau xe khám xét. Cảm tạ
Chúa đă che chở chúng tôi!
Xe
chạy trong đêm được một quăng xa, đường xá đang êm ru rồi trở
thành gồ ghề, nhiều ổ gà, xóc lên xóc xuống. Một lúc sau đó gặp
đường êm, xe ngừng lại và nghe ông đưa đường nói lớn: “pọt fay
léo” (an toàn rồi). Té ra lúc đó đă tới Udorn Thani vào khoảng
nửa đêm, họ hỏi chúng tôi có đói không, xuống vào tiệm ăn cơm.
Đêm khuya lạnh, chúng tôi không xuống. Tài xế và ông đưa đường
xuống xe và đi ăn. Khi trở lại xe họ vất cho chúng tôi mỗi đứa
một túi cơm chiên. Chặng đường gồ ghề là khi họ lái xe băng rừng
để tránh trạm kiểm soát (Check Point). Xe chạy suốt đêm và đến 9
giờ sáng hôm sau mới tới Bangkok. Họ đổ bộ chúng tôi trên quăng
đường gần sân bay Don Muang và kêu taxi đưa chúng tôi tới nhà
thờ Fatima, khu Dinh Dèng, Bangkok.
V́
5 đứa chúng tôi đều là độc thân, cha Gilles không nhận. Tôi bảo
với cha là con có gia đ́nh nhưng vợ con con chưa thể đi cùng,
vài ngày nữa sẽ vào đến nơi. Cha bảo tôi: đến khi nào vợ con đến
rồi hăy vào đây mà khai nhập trại. Chết cha tôi rồi. Bây giờ
biết làm sao đây? May quá gặp ngay bác Trần Huệ cùng Xóm
Khouadine biết tôi. Bác bảo tôi tạm đến ngủ và ăn chung với gia
đ́nh bác, có mắm ăn mắm, có muối ăn muối, do Cha cấp phát cho;
đợi khi vợ con đến rồi vào khai sổ gia đ́nh tị nạn, Cha sẽ cho
người phân phát mùng mền và chỗ tạm trú. Tôi rất ghi ơn bác Huệ
và gia đ́nh bác!
(Lư
do Cha Gilles không nhận những người độc thân là v́ trước đó đă
có một số thanh niên độc thân du côn, bất trị, phá phách, đánh
lộn nhau, nên ngài không muốn chứa chấp thêm những người độc
thân nào khác nữa. Bởi vậy những người độc thân đến sau bị ảnh
hưởng lây.)
Sau
khi vợ chồng con cái, mẹ và em vợ được Cha Gilles cho tạm trú
tại nhà thờ Fatima. Tôi đem gia đ́nh đến gặp ông Directeur
Banque de l’Indochine (BI) ở Bangkok (v́ tôi là cựu nhân viên BI
Vientiane) để nhờ ổng giới thiệu đến nhân viên Sứ Quán Pháp ở
Bangkok may ra được đón tiếp dễ dăi hơn. Ông directeur nở nụ
cười và hứa sẽ giúp. Và ông gọi phone vào Sứ Quán Pháp nói
chuyện, sau đó ổng cho tôi biết sẽ có nhân viên SQ chờ tôi trước
cổng. Mừng quá, tôi cám ơn và từ giă ông directeur. Vậy là tôi
đến Sứ Quán Pháp và được đón tiếp rất là chu đáo. Sau khi được
phỏng vấn và lập hồ sơ xin đi tị nạn ở Pháp, họ cho tôi biết là
chịu khó tới đây thường xuyên để xem kết quả được dán trước cổng
Toà Đại Sứ những ai đă được Bộ Ngoại Giao Pháp chấp thuận.
Mới
vào Bangkok được vài ngày th́ tôi gặp bác sỹ Nhommala Bouasakao
đến nhà thờ Fatima để xem đă có tôi đến đó chưa. Ông nói với tôi
là đă đến đây vài lần, nhưng không gặp tôi. Ông tâm sự là Pathet
Lào gửi giấy mời đi Xămmana (cải tạo). Vậy là ông chuồn luôn và
để lại giấy tờ của tôi cho cô y-tá. Bác sỹ cũng đă ở lại Bangkok
đâu chừng 1 tháng sau đó mới đáp máy bay về Pháp với vợ con.
Sau
2 tuần ở nhà thờ Fatima, cha Gilles bắt gia đ́nh tôi phải vào
trại Satahịp. Tôi xin phép ngài ở lại để chờ đi Pháp v́ tôi có
giấy tờ đầy đủ đă nộp cho Toà Đại Sứ Pháp rồi; và Ngài đă chấp
nhận. Đợi măi suốt 5 tuần lễ chưa thấy tên, tôi đành t́nh nguyện
xin cha Gilles để được vào trại Vayama-Satahịp. Có cha Bernard
chuyên giúp đỡ người tị nạn, lui tới trại Vayama và báo cho biết
tên tuổi những ai đă được chính phủ Pháp chấp nhận.
Trong thời gian 5 tuần ở Bangkok, ngoài những lúc chực chờ ở Toà
Đại Sứ Pháp, tôi cũng đem vợ con đi shopping chợ trời Sanam
Luang, thăm Sở Thú, viếng các chùa chiền Phật Giáo, thăm Chùa
Phật-Ngọc. Tượng Phật-Ngọc này trước kia được đặt trong Chùa
“Wat Phra Keo” đối diện với Bệnh Viện Mahosot ở Vientiane. Thời
xưa quân đội Thái đă đánh chiếm Vientiane và cướp luôn tượng
Phật Ngọc này đem về Bangkok. Một hôm, cô Kim, con gái ông bà
Khuông rủ tôi đi thăm trại Vayama ở Satahịp. Một ông cảnh sát
Thái có nhiệm vụ lui tới với người tị nạn ở nhà thờ Fatima và
trại tị nạn Vayama muốn rủ Kim đi. Kim sợ không dám đi một ḿnh
với ổng, nên đă rủ tôi đi cùng, và ông cảnh sát Thái cũng chấp
nhận cho tôi tháp tùng. Hai anh em được đi thăm trại gặp một số
người quen, sau đó được ghé thăm biển Phattaya trước khi trở về
Bangkok.
Mới
vào trại Vayama-Satahip được vài ngày th́ có phái đoàn Mỹ vào
phỏng vấn. Họ ra điều kiện chỉ nhận đơn phỏng vấn những người
Việt từ VN qua mà thôi. C̣n những người Việt từ Lào qua phải là
những người qua trước ngày 1/7/1975. Những ai qua sau ngày này
sẽ không được chấp nhận. Gia đ́nh tôi qua sông vào giữa tháng
Tám, vậy thôi hết hy vọng xin đi Mỹ rồi! Ông Tạ Ngọc Khoát và
tôi ngồi bàn mưu bày kế với nhau là nộp đơn và đề ngày qua sông
27/6/75. Nếu họ hỏi bằng chứng th́ ông Khoát và tôi sẽ làm chứng
cho nhau. Trong khi đó tôi cũng mới làm quen được với ông trưởng
trại, một Đại Tá trong Quân Lực VNCH. Ổng thấy tôi hiền lành và
xem tôi như em út trong gia đ́nh. Ông bảo tôi: anh đây sẽ là
thông dịch viên. Chú mày cứ nộp đơn và nếu họ có bắt phải giơ
tay thề th́ cứ nói “nếu tôi nói dối th́ cho Mỹ nó chết”,
họ có hiểu tiếng Việt đâu mà lo. Tôi được dịp may làm đơn nộp
xin đi tị nạn ở Mỹ. Phái đoàn Mỹ hỏi tôi có ai là thân nhân đang
ở bên Mỹ không? Tôi trả lời có. Họ hỏi tôi giấy tờ chứng minh.
Lúc đó tôi đang có 2 lá thư: 1 của anh Quư (chồng chị Thân), và
1 của Nga (vợ Huỳnh Cường). Tôi quyết định đưa lá thư của Nga
Thị Nguyễn cho nhân viên phái đoàn Mỹ, v́ Nga viết thư cho tôi
bằng chữ Anh, trong thư Nga nhận tôi là anh ruột. Họ chỉ nh́n
thấy ngoài phong thư tên người gửi và người nhận đều cùng Họ
Nguyễn cùng với tem và con dấu bưu điện Mỹ. Gia đ́nh tôi được
chấp nhận cho đi Mỹ một cách rất dễ dàng. (Cám ơn và nhớ đời vợ
chồng Huỳnh Cường và Nguyễn Thị Nga!)…
Mừng quá v́ được đi Mỹ định cư, Tính (em trai vợ tôi) và tôi
trốn trại đón xe đ̣ đi Bangkok sắm ít đồ đạc để đem đi Mỹ dùng.
Mua được vài thứ cần rồi hai anh em chúng tôi cũng đến nhà thờ
Fatima ngủ ké một đêm để sáng hôm sau đón xe đ̣ về lại trại. Xe
đ̣ đổ bộ anh em tôi xuống, sau đó hai anh em chúng tôi phải đón
xe lam chạy thêm vài cây số nữa mới đến trại. Cách trại c̣n
chừng 1 cây số hai anh em tôi xuống xe, phải lội bộ qua một cái
bưng ra phía sau trại rồi chui hàng rào kẽm gai mà vào trại. Vừa
mới tḥ đầu qua khỏi hàng kẽm gai, nghe một giọng nói quát tháo
bằng tiếng Thái:
- “Pay
náy ma?” (Đi đâu về?)
Tôi
ngước mặt lên th́ thấy một anh cảnh sát Thái đang cầm một khẩu
súng lục chỉa thẳng vào tôi. Sợ quá, tôi trả lời:
- “Pay
Tà-lạt Satahịp ma khăp.” (Đi
chợ Satahip về ạ).
Anh
cảnh sát Thái quát lại:
- “Pay
Tà-lat Satahịp lứ pay Krungthêp ma?” (Đi chợ Satahịp hay đi
Bangkok về?).
Tôi
trả lời:
-
“Tà-lạt Satahịp khăp.”
Anh
cảnh sát thấy tôi nói được tiếng Thái. Anh liền dịu giọng và bảo
tôi là có ông xếp của ảnh đang ở trong trại, nên đi về phía đàng
kia một tí mà vào kẻo ổng thấy. Tôi gật đầu: “Khỏp khun mac”
(cám ơn anh nhiều). Hú hồn hú vía, trong khi đó tôi đang cầm cái
túi giấy đựng hàng có ghi chữ “Thai Dammaru Mall” đương nhiên
chỉ ở Bangkok mới có cái shopping mall mang tên Thai Dammaru này
mà anh cảnh sát không nh́n thấy. Nếu như gặp phải anh cảnh sát
khác chắc chắn hai anh em tôi đă bị lột áo, để ḿnh trần phơi
nắng cả ngày. Đó là án phạt của cảnh sát Thái gác trại dành cho
những ai trốn trại mà đi tắm biển hay đi chợ Satahịp.
Ngày 30 tháng 10 năm 1975 hai chuyến bay cuối cùng chở người
Việt tị nạn đi Mỹ. Sau đó trại Vayama đóng cửa luôn. Những người
tị nạn c̣n sót lại trong trại này được dời đến trại Sikhiu. Một
chiếc Boeing-747 chở 500 người tị nạn đến trại Indiantowngap,
tiểu bang Pennsylvania, và 1 chiếc DC-10 chở 300 người đến trại
Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas, trong chuyến này có gia đ́nh
tôi 7 người. Ở trong trại này cũng được 5 tuần th́ được Hội Bảo
Trợ Church World Services t́m được 4 nhà thờ Tin Lành bảo lănh
gia đ́nh tôi đến thành phố Kittanning, tiểu bang Pensylvania
định cư ngày 16/12/1975.
Sau
vài tháng định cư ở chân trời mới đất mới này, tôi đi làm dành
dụm được một ít tiền gửi về giúp đỡ mẹ già và khuyên mẹ nên đi
với gia đ́nh anh Giáp. V́ mẹ đă 75 tuổi rồi, sau khi đến Mỹ,
chính phủ sẽ cấp tiền già, mẹ khỏi lo sợ đói khổ. Bà cụ phần nhớ
con nhớ cháu, phần nghe lời giải thích êm ru nên đă bằng ḷng đi.
Bên Mỹ tôi đă nhờ nhà thờ Công Giáo và họ đă sẵn sàng bảo trợ
gia đ́nh anh tôi và mẹ tôi. Sau khi đă qua Thái được 2 tháng th́
được đoàn tụ với gia đ́nh tôi tại Kittanning vào đầu Mùa Hè
1976…
Nếu
gia đ́nh tôi được đi Pháp th́ mẹ vợ và 2 đứa em vợ tôi bị kẹt
lại Bangkok v́ chưa có ai bảo lănh cho đi nước thứ ba cả. Tất cả
mọi việc đều do Chúa xếp đặt. Đúng thật, mọi việc Ngài làm, con
người mấy ai biết trước được!
Tạ ơn Chúa, Mẹ
Maria và thánh Cả Giuse đă an bài cho số phận chúng con được
định cự trên phần đất tự do này. Và trong suốt chặng đường đi tị
nạn, chúng con không hề gặp phải một chuyện khó khăn đáng tiếc
nào xẩy ra. Chỉ có một điều thay v́ hy vọng được đi Pháp th́ ư
Chúa đă sắp đặt cho gia đ́nh chúng con đi Mỹ. Muôn đời chúng con
ghi nhớ và ca ngợi Thánh Danh Ngài.
Ất
Nguyễn
Tháng Tư
Đen 2009
|